Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

ĐÔI CHIẾU CỖ TRĂM NĂM

Ông Hưởng cẩn thận cất giữ đôi chiếu cỗ như bảo vật của gia đình

Gia đình ông Bùi Ngọc Hưởng ở ấp Tân Phú, xã Tân Lý Tây hiện đang lưu giữ đội chiếu cỗ khoảng 100 năm tuổi. Mỗi chiếu dài 2,4 mét và rộng 0,5 mét, được dệt bằng những sợi cói rất mảnh, bên trên trang trí hoa văn tinh tế, đẹp mắt. Các hình trang trí: bông hoa 8 cánh và những đôi chim, thú như thỏ, voi, nai, dê, mèo… đều được dệt bằng cói nhuộm màu xanh da trời. Tuy đôi chiếu đã ố vàng theo thời gian nhưng vẫn thể hiện được tay nghề khéo léo của những người thợ dệt chiếu ngày xưa.
Ông Bùi Ngọc Hưởng cho rằng “Ngày xưa bàn ghế rất ít, mâm cỗ trong các ngày lễ lộc, giỗ chạp thường được dọn trên ván hoặc dưới thềm nhà. Do đó người ta làm những chiếc chiếu cỗ để bày thức ăn. Đôi chiếu này có từ thời ông cố của tôi, mỗi năm chỉ được sử dụng vài lần. Mấy chục năm nay nó không được dùng đến, tôi cất giữ để làm kỷ niệm đồ của ông bà”. Ngày nay đám tiệc hầu như không còn dọn cỗ trên chiếu nên đôi chiếu cỗ đã mất dần trong dân gian, giới trẻ ít ai biết tới.


Nhà cổ hồn quê

Những ngôi nhà rường Nam bộ trên 100 tuổi, rộng cả ngàn mét vuông hiện nay không còn nhiều. Các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Long An mỗi nôi chỉ còn một số ngôi, riêng miệt vườn Tiền Giang còn lưu giữ được trên 30 ngôi “đại gia” như thế. Bước vào những ngôi nhà cổ kính rộng thênh thang, nội thất lộng lẫy khiến người đời nay phải choáng ngợp. Mỗi ngôi nhà cổ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, phản phất hồn quê từ cái thuở ông cha mang gươm đi mở cõi.
Nhà ông Hội đồng Phan Văn Cự



Vương vấn hồn quê
Nhà ở Nam bộ xưa chủ yếu được cất theo kiểu nhà rường, một số cất theo kiểu nhà rọi. Phong cách kiến trúc nhà rường nam bộ nói lên “cái máu” của dân khẩn hoang: “Bất chấp luật vua, chỉ sợ mỗi cái đình”. Ngày xưa đình lợp lá nhà phải lợp lá, khi đình lợp ngói nhà người ta mới dám lợp ngói. Bây giờ ngoài thức nhà chữ đinh thông dụng, chúng ta còn thấy những ngôi nhà chữ công, thềm 2 bậc mà theo lẽ xưa chỉ có dinh thự hay bậc quyền quí mới được phép xây.
Nhà cỗ ở Tiền Giang cũng có sự khác biệt giữa hai vùng Đông và Tây. Thường ở các huyện phía đông nhà thấp, cột nhỏ và dùng gỗ tốt. Từ huyện Châu Thành trở lên, các vị điền chủ mới nổi muốn thể hiện sự giàu có của mình nên nhà thường cao và cột lớn. “ Cái máu” của dân khẩn hoang là “ăn theo thuở, ở theo thì”. Điều này cũng đúng với nhiều ngôi nhà cỗ, vì ngoài kiến trúc truyền thống, chủ nhân thường xây thêm thềm ba bằng gạch vữa theo kiểu Tây đang thịnh lúc bấy giờ.
Nhắc đến nhà cỗ ở Tiền Giang, nhiều người liên tưởng đến ngôi nhà của anh Trần Anh Kiệt ở Đông Hoà Hiệp, huyện Cái Bè được tổ chức JiCa Nhật Bản tài trợ trùng tu vào năm 2003. Thật ra đây chưa phải à ngôi nhà độc đáo nấht ở Tiền Giang. Bỡi mỗi ngôi nhà cỗ đều mang phong cách, sự độc đáo riêng của nó.

Trong những ngôi nhà độc đáo

Nhà của ông Hội đồng Phan Văn Cự ở ấp Phú Hưng, xã Long Khánh, huyện Cai Lậy đựơc Ban Quản lý di tích Sở VH- TT- DL đánh giá là ngôi nhà có kiến trúc chạm độc đáo nhất tỉnh hiện nay. Ngôi nhà này rộng trên 1.000 m2 , nền lót gạch da qui, mái lợp ngói móc, bên trong có 140 cây cột lớn bằng gõ được kê trên tán gỗ.

Cụ ông Phan Ngọc Bỉnh, 90 tuổi, con trai ông Hội đồng cho biết: “Nhà được cất làm nhiều lần. Phần nhà chính đựơc ông nội tôi cất vào khoảng năm 1880. Nghe kể lại, ông tôi cho người ra miền Trung mua gỗ chở về và thuê 40 thợ từ miền Bắc, miền Trung vào làm ròng rã trong 4 năm mới xong. Sau đó cha tôi cất thêm phần Thảo bạt (nhà để khách chờ vào lễ). Để tôn trọng ông nội nên cha tôi cất phần thảo bạt dười nền thấp hơn nhà chính. Do cột đã cắt sẵn từ trước nên cha tôi cho làm phần tán cổ bồng bằng gỗ. Trong nhà dùng toàn bộ là tán sỗ, chốt gỗ chứ không dùng đinh. Năm 1915 phần thềm ba được xây thêm bằng gạch thẻ và hồ ô dước, có trang trí hao văn kiểu Pháp”.
Theo JiCa, Thảo bạt nhà Hội đồng Cự là thảo bạt lớn nhất Việt Nam. Phần tán cổ bồng là nét độc đáo của ngôi nhà này nhưng độc đáo nhất vẫn là kiến trúc chạm. Đây là ngôi nhà duy nhất toàn bộ xiêng, trính đều được chạm trổ 3 mặt. Hiện ngôi nhà còn giữ được 2 bộ tranh thờ và 8 bức thủ uyển sơn son thiếp vàng, 20 đồi liễn, 20 khuôn biển và nhiều bao lam chạm 3 mặt. Điều rất độc đáo là mỗi món đồ được chạm từ một thân cây to. Theo chủ nhân ngôi nhà hiện nay, để làm một bức thủ uyển, ông cha họ phải tốn hơn 3 tháng công thợ và dát lên đó 2 lượng vàng ròng.
Ở ấp Tân Phú, xã Tân lý Tây, huyện Châu Thành, ngôi nhà của chú Bùi Ngọc Hưởng là ngôi nhà duy nhất ở Tiền Giang còn lưu giữ nguyên vẹn kiến trúc nhà truyền thống của người Việt sau hơn 100 năm xây dựng. Người Bình Xuyên là một trong nhiều bộ phim sử dụng nhiều cảnh quay ở ngôi nhà này. Theo chú Hưởng “Ông cố của tôi cất nhà này hết gần 3.000 đồng Đông Dương”, trong khi thời kỳ đó một mẫu ruộng tốt chỉ có giá 30 đồng.
Đến xứ Gò Công, ngôi nhà Đốc Phủ Hải rất độc đáo. Nó tựa như  một tiểu cung điện bỡi sự nguy nga của ngôi nhà và sự cầu kỳ, sa hoa của nội thất. Bước vào nhà, nhìn đâu đâu cũng thấy những tác phẩm nghệ thuật chạm khảm tuyệt mỹ và các cỗ vật quí giá. Nhà Đốc Phủ Hải thể hiện một giai đoạn lịch sử vùng đất Gò Công. đó là thời kỳ phong kiến khủng hoảng và sự du nhập ồ ác của văn hoá phương Tây. Phần bên ngoài của ngôi nhà được xây dựng bỡi vôi vữa, cổng sắt theo kiểu kiến trúc Pháp như chiếc áo tân thời khoác lên ngôi nhà rường Nam bộ.
Có lẽ ít ai biết nhà Đốc Phủ Hải hiện nay gốc là nhà của bà Trần Thị Sanh, người em con cô con cậu với Hoàng Thái hậu Từ Dũ. Bà Trần Thị Sanh là người giàu có nhất vùng Gò Công hồi cuối thế kỷ XIX, được dân trong vùng gọi tôn kính là Bà Hầu “Gò Công bốn tổng đồng giàu, mà riêng có một bà Hầu giàu to”. Bà cũng là người vợ thứ của anh hùng Trương Định, do Hoàng Thái hậu Từ Dũ ban hôn. Đốc phủ Hải là cháu gọi bà Sanh là ngoại vợ.
Thời gian trôi qua với bao thăng trầm thế sự. Người xưa đã mất, trong những ngôi nhà cỗ chỉ còn phản phất cái tinh anh. Ông Trương Hùng Dũng, Trưởng ban Quản lý di tích tỉnh Tiền Giang trăn trở: “Toàn tỉnh hiện có trên 350 ngôi nhà được xây dựng từ năm 1940 trở về trước. Trong số đó có khoảng 35 căn nhà cỗ có giá trị về mặt kiến trúc và nghệ thuật rất cao. Nhà cổ là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá, nghệ thuật và lịch sữ của dân tộc. Tuy nhiên các ngôi nhà cổ đang bị mai một dần bởi thời gian và thời tiết”.

Xuân qua lầu các bà


Ở xã Đồng Thạnh hiện còn 3 ngôi nhà lầu được xây dựng cách nay khoảng 100 năm. Điều rất đặc biệt là chủ nhân của những cổ lâu trên đều là phụ nữ. Mảnh đất này cũng chính là quê hương sinh ra vị Hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam_ Nam Phương Hoàng Hậu.

Lầu bà Tám

Ghé qua những lầu bà
Vùng Đồng Thạnh, Đồng Sơn xưa kia là trung tâm của huyện lỵ Hòa Lạc Thượng. Đây là nơi tập trung sinh sống của những gia đình giàu có, những danh gia thế tộc. Thời gian vật đổi sao dời, ba ngôi lầu cổ ở xã Đồng Thạnh là vật chứng còn lại của vùng đất một thời sầm uất. Đó là: Lầu bà Năm nằm trong khuôn viên của trường THCS Đồng Thạnh; lầu bà Chín Đào hiện là Bệnh viện Đa khoa Khu vực Đồng Thạnh; lầu bà Tám Huê đang được cơ quan quân sự quản lý. Các ngôi nhà trên dưới 100 tuổi này đều được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp. Nổi tiếng nhất trong những ngôi lầu của các bà ở xã Đồng Thạnh là lầu bà Tám Huê.
Lầu bà Tám Huê là ngôi nhà có kiến trúc độc đáo, kết hợp văn hóa phương Đông và phương Tây. Tổng diện tích sử dụng của ngôi nhà này khoảng 2.000 m2. Tuy thời gian và con người đã làm cho ngôi nhà hư hỏng nặng nhưng giá trị kiến trúc và nghệ thuật độc đáo của nó vẫn còn giữ được. Ngoài những vật liệu mới được nhập từ Pháp, ngôi nhà này còn sử dụng những vật liệu truyền thống như hồ ô dước và sỏi trứng. Nền nhà là một hồ nước lớn. Người dân địa phương kể lại, ngày xưa chưa có nước ngọt, gặp những năm hạn hán, mưa muộn, hầm nước mưa nhà bà Tám Huê cung cấp đủ nước uống cho dân cả vùng.
Được biết, chủ nhân xưa kia của những ngôi cổ lâu này là 3 chị em, con gái của ông phủ Huỳnh Đình Khiêm- người Việt Nam đầu tiên mở ngân hàng. Vốn là người giàu có nhưng không có con trai, gia sản kết sù của ông được chia cho những người con gái. Bà Năm, bà Tám Huê, bà Chín Đào đều là những phụ nữ nhân hậu. Và lầu bà Tám Huê chính là nhà chú ruột của Nam Phương Hoàng hậu.
Lầu bà Chín Đào

  Về quê Nam Phương Hoàng Hậu
Sử sách ghi lại Nam Phương Hoàng hậu, tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse. Bà sinh ngày 4 tháng 12 năm 1914 tại Gò Công, Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam. Ông Nguyễn Hữu Hào là người Gò Công mở đồn điền cà phê, trà và cao su ở miền Trung. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu. Nam Phương Hoàng hậu là một người vợ hiền thục và nhân từ. Suốt những năm ở ngôi Hoàng hậu cho đến khi từ giã cõi đời không hề có một tiếng thị phi, một lời than trách. Bà được ghi nhận trong lịch sử như một Hoàng hậu mẩu mực.
Ông Nguyễn Thanh Tâm, nguyên Trưởng phòng VHTT huyện Gò Công Tây cho biết: “Sách viết Nam Phương Hoàng hậu quê ở Gò Công nhưng không ghi rõ ở đâu. Chúng tôi đã tìm hiểu nhiều năm, từ nhiều nguồn và bây giờ hoàn toàn có thể kết luận quê của Nam Phương Hoàng hậu là vùng Đồng Sơn, Đồng Thạnh bây giờ. Ông Nguyễn Hữu Đỏ, chồng của bà Tám Huê chính là chú ruột của Hoàng hậu. Tuy nhiên trước khi vào cung, Hoàng hậu ở Sài Gòn và du học ở Pháp chứ không sống ở Gò Công.
Tiến sĩ luật Nguyễn Hữu Châu, nguyên là Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng phụ trách phủ Tổng thống chề độ Ngô Đình Diệm xác nhận như thế. Ông Châu là con của ông Nguyễn Hữu Đỏ, tức là em con của chú Hoàng hậu. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, ông Châu đã giao lại toàn bộ khoảng 4.000 ha đất của gia đình cho chính quyền cách mạng quản lý. Hiện nay dòng họ Nguyễn Hữu không ai sinh sống tại Gò Công. Nhiều năm qua, cứ mỗi dịp cuối năm, ông Châu lại từ nước Pháp trở về quê chăm sóc mộ phần của gia tộc ở ấp Hòa Bình, xã Đồng Thạnh.”
Xuân đã đến bên thềm, những ngôi lầu cổ lại ghi thêm vào lòng mình bao nhiêu thăng trầm thế sự. Qua lầu các bà nghe kể lại chuyện xưa, xin nghiêng mình trước anh linh trên vùng đất địa linh nhân kiệt Gò Công.


Lầu bà Năm